Năng
lực thực hành công tác xây dựng đảng là một yêu cầu quan trọng và chủ
yếu của đội ngũ cấp uỷ viên ở đơn vị cơ sở. Chất lượng, hiệu quả của
công tác xây dựng đảng phụ thuộc rất lớn và trực tiếp vào năng lực thực
hành của họ. Thường xuyên nâng cao năng lực thực hành công tác xây dựng
đảng của đội ngũ cấp uỷ viên cơ sở là việc làm cần thiết hiện nay, là
trách nhiệm của các tổ chức đảng và của chính đội ngũ cấp uỷ viên cơ sở.
Năng
lực thực hành công tác xây dựng đảng của đội ngũ cấp uỷ ở cơ sở là tổng
thể các khả năng, điều kiện chủ quan hoặc tự nhiên sẵn có của người cán
bộ làm công tác đảng được huy động vào việc giải quyết nhanh chóng,
thành thạo, có chất lượng và hiệu quả cao các nhiệm vụ theo chức trách
được giao. Đây là loại năng lực chuyên biệt (tay nghề) của người cán bộ
làm công tác xây dựng đảng, của đội ngũ cấp uỷ viên cơ sở, được thể hiện
qua những nội dung chủ yếu sau:
Năng lực tiến hành công tác xây dựng đảng ở cơ sở
(xây dựng đảng bộ, chi bộ, đảng uỷ, chi uỷ, đội ngũ đảng viên). Nội
dung này bao gồm các năng lực cụ thể như soạn thảo nghị quyết lãnh đạo
của cấp ủy, chi bộ trực thuộc; tổ chức, phát huy trí tuệ tập thể của cấp
uỷ, chi bộ, đảng viên trong thực hiện nghị quyết, xây dựng tổ chức đảng
trong sạch, vững mạnh, nâng cao năng lực lãnh đạo của đảng bộ, chi bộ
và sức chiến đấu của đội ngũ đảng viên; quản lý, giáo dục, rèn luyện đội
ngũ đảng viên; tổ chức và điều hành các kỳ đại hội đảng bộ, chi bộ, hội
nghị toàn thể đảng viên, sinh hoạt đảng (thảo luận ra nghị quyết lãnh
đạo, học tập, tự phê bình và phê bình)... theo đúng nguyên tắc và chế độ
quy định.
Năng lực giáo dục tư tưởng chính trị cho cán bộ, đảng viên thuộc quyền.
Nội dung này gồm: năng lực nắm bắt tình hình tư tưởng chính trị và đời
sống tinh thần của đảng viên, nhân dân; năng lực tuyên truyền, giáo dục,
thuyết phục về tư tưởng đối với đảng viên và nhân dân; năng lực diễn
giải, diễn thuyết, hùng biện...
Năng lực tổ chức triển khai các hoạt động thường xuyên về xây dựng đảng tại cơ sở và trong các nhiệm vụ, tình huống cụ thể.
Nội dung này gồm: năng lực xây dựng kế hoạch và tổ chức các hoạt động
theo kế hoạch; năng lực triển khai các hoạt động vận động nhân dân,
trong xây dựng hệ thống chính trị cơ sở, chỉ đạo hoạt động của các tổ
chức chính trị - xã hội...
Cấu trúc năng lực thực hành công tác xây dựng đảng của đội ngũ cấp uỷ cơ sở - từ góc độ xây dựng Đảng, là tổng hợp các yếu tố cơ bản:
về trình độ lý luận (các tri thức cần thiết về công tác xây dựng đảng);
mức độ thành thạo nghiệp vụ (các kỹ năng); sự sáng tạo trong vận dụng tri thức xử lý các tình huống công tác xây dựng đảng;
năng khiếu và xu hướng nghề nghiệp (sự say mê, hứng thú, khả năng bẩm sinh về hoạt động chính trị - xã hội như nói, đọc, viết, diễn thuyết, quan hệ giao tiếp);
các đặc điểm tâm lý phù hợp
với tính chất, yêu cầu của hoạt động công tác xây dựng đảng (bình tĩnh,
kiên nhẫn, khả năng thuyết phục, nhanh nhạy trước những tình huống
chính trị - xã hội và sơ kết, tổng kết kinh nghiệm thực tiễn).
Các
yếu tố trên kết hợp chặt chẽ với nhau, tác động qua lại lẫn nhau trong
quá trình hình thành và phát triển năng lực thực hành công tác xây dựng
đảng của đội ngũ cấp uỷ viên cơ sở, trong đó các yếu tố tri thức, kỹ
năng và năng khiếu về công tác xây dựng đảng giữ vai trò quan trọng hàng
đầu.
Đánh giá
năng lực thực hành công tác tổ chức xây dựng đảng của đội ngũ cấp uỷ
viên cơ sở theo nhiều hệ tiêu chí khác nhau - tuỳ theo góc độ tiếp cận
hoặc yêu cầu cụ thể. Có cách đánh giá theo các tiêu chí về tri thức, kỹ
năng, mức độ sáng tạo, hiệu quả thực tiễn... Khái quát lại, cần đánh giá
năng lực thực hành công tác xây dựng đảng của đội ngũ cấp uỷ viên cơ sở
trên một số mặt sau: 1) Hiệu quả cụ thể trong giải quyết các nhiệm vụ
xây dựng Đảng (sử dụng tiết kiệm thời gian, nhân lực, vật lực, phương
tiện mà vẫn đạt chất lượng cao). 2) Trình độ sáng tạo trong lựa chọn
hình thức, phương pháp phù hợp để giải quyết nhanh, có chất lượng và
hiệu quả cao các nhiệm vụ. 3) Mức độ tiến bộ, sự lĩnh hội sâu hay rộng
các kỹ năng nghề nghiệp. 4) Trình độ tri thức, kỹ năng cần có để hoàn
thành tốt nhiệm vụ. Khi đánh giá năng lực thực hành công tác xây dựng
đảng của đội ngũ cấp uỷ viên ở cơ sở, cần xem xét đầy đủ các mặt cơ bản
đó, không bỏ qua hay xem nhẹ mặt nào.
Những
năm qua, đội ngũ cấp uỷ viên cơ sở đã có sự phát triển mới về phẩm chất
và năng lực, trong đó có năng lực thực hành công tác xây dựng đảng. Kết
quả khảo sát ở một số đơn vị cơ sở cho thấy, trình độ nhận thức lý luận
chính trị và kỹ năng thực hành công tác xây dựng đảng của họ đã được
nâng lên. Đa số cấp uỷ viên cơ sở (nhất là cán bộ chủ chốt) đã được đào
tạo lý luận chính trị, trong quá trình thực hành công tác xây dựng đảng,
năng lực công tác được nâng lên, đáp ứng các yêu cầu thực tiễn ở cơ sở.
Tuy vậy, so với yêu cầu chung về nâng cao năng lực lãnh đạo và sức
chiến đấu của đảng bộ, chi bộ cơ sở, năng lực thực hành công tác xây
dựng đảng của đội ngũ cấp uỷ viên ở cơ sở vẫn còn có những hạn chế nhất
định. Biểu hiện rõ nét nhất là việc vận dụng tri thức, kỹ năng để giải
quyết tình huống công tác xây dựng Đảng có lúc chưa tốt, chưa linh hoạt;
việc điều hành các hoạt động sinh hoạt tập thể của tổ chức đảng, chính
quyền và đoàn thể chính trị - xã hội còn lúng túng hoặc sai sót; việc
giải thích, vận động, thuyết phục đảng viên và nhân dân có lúc chưa thật
thấu tình đạt lý, sức thuyết phục chưa cao. Một số cấp ủy viên có
khuynh hướng hành chính hoá các hoạt động công tác xây dựng đảng; khả
năng xử lý các tình huống cụ thể chưa tốt.
Những
hạn chế trên do nhiều nguyên nhân khách quan, chủ quan, cụ thể là: 1)
Kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng thiếu khoa học, chưa gắn với quy hoạch cán
bộ và bố trí, sử dụng sau đào tạo, bồi dưỡng. 2) Chưa có quy định chuẩn
về chế độ bồi dưỡng bắt buộc đối với đội ngũ cấp uỷ viên cơ sở; việc
đánh giá chất lượng bồi dưỡng còn hình thức, chưa sát thực chất. 3) Nội
dung bồi dưỡng còn trùng lặp, nặng về lý thuyết, thiếu kinh nghiệm thực
tiễn, chưa có chương trình bồi dưỡng theo chức danh; chưa chú trọng đổi
mới nội dung, chương trình, giáo trình, bài giảng. 4) Đội ngũ giảng
viên, báo cáo viên còn hạn chế trong cập nhật kiến thức mới, kinh nghiệm
thực tiễn, các kỹ năng xử lý tình huống. Vận dụng phương pháp giảng dạy
tích cực trong các lớp học chưa nhiều.
Để
góp phần nâng cao năng lực thực hành công tác tổ chức xây dựng đảng của
đội ngũ cấp uỷ viên cơ sở trong thời gian tới, xin đề xuất một số giải
pháp:
Một là, làm tốt quy hoạch đội ngũ cấp uỷ viên cơ sở.
Cần tuyển chọn không chỉ về phẩm chất, trình độ mà còn chú ý yếu tố
năng khiếu hoạt động chính trị - xã hội, trong đó chú trọng những người
có khả năng phát triển năng lực thực hành công tác xây dựng đảng. Nếu
không tuyển chọn kỹ thì sau khi trúng cử cấp uỷ viên cơ sở sẽ khó, thậm
chí không làm được công tác xây dựng đảng.
Hai là, đầu tư nâng cao trình độ kỹ năng công tác xây dựng đảng cho đội ngũ cấp uỷ cơ sở.
Các trường chính trị tỉnh, thành phố; trung tâm bồi dưỡng chính trị
huyện, quận (và tương đương) cần tăng thời gian thực hành kỹ năng công
tác xây dựng đảng, giảm bớt một số môn học lý thuyết trùng lặp, hoặc
không phục vụ trực tiếp cho việc nâng cao năng lực thực hành công tác
xây dựng đảng của đội ngũ cấp uỷ viên cơ sở sau này; tăng thời gian tổ
chức xử lý tình huống giả định ngay tại trường để học viên vừa học, vừa
tập luyện, làm quen. Các hình thức kiểm tra, thi cũng cần được đổi mới
theo hướng tăng sự vận dụng lý luận trong xử lý tình huống thực tiễn để
buộc học viên rèn luyện, nâng cao trình độ tay nghề công tác xây dựng
đảng.
Ba là, cấp uỷ cấp trên cần chú trọng bồi dưỡng năng lực thực hành công tác xây dựng đảng cho đội ngũ cấp uỷ viên cơ sở.
Chú ý bồi dưỡng kinh nghiệm công tác và phương pháp tổ chức vận dụng
kiến thức, kỹ năng vào thực hiện tốt các nhiệm vụ công tác xây dựng
đảng; bồi dưỡng cách xem xét, đánh giá tình hình, nhanh chóng tìm ra
khâu yếu, nhiệm vụ quan trọng để tập trung giải quyết, đem lại hiệu quả
cao. Cần khuyến khích đội ngũ cấp uỷ viên tìm tòi, sáng tạo các phương
pháp mới trong thực hành công tác xây dựng đảng và tạo điều kiện thuận
lợi để họ bộc lộ năng lực của mình theo chức trách, cũng như ở cương vị
cao hơn.
Bốn
là, tập huấn nghiệp vụ công tác xây dựng đảng hoặc định kỳ đưa đội ngũ
cấp uỷ viên cơ sở đi đào tạo nâng cao tại các trường chính trị. Cần
có quy định trong thời hạn bổ nhiệm hoặc trong nhiệm kỳ phải tham gia
bồi dưỡng với nội dung và số giờ học nhất định, nếu không hoàn thành sẽ
không xem xét bổ nhiệm hoặc tái cử. Việc tổ chức các lớp tập huấn cho
đội ngũ cấp uỷ viên cơ sở nhằm nâng cao trình độ lý luận, trang bị những
nội dung, phương pháp thực hành công tác xây dựng đảng cập nhật hơn,
khắc phục khuynh hướng kinh nghiệm chủ nghĩa trong công tác.
Năm
là, quản lý chặt chẽ chất lượng đào tạo, bồi dưỡng, đề cao tính chủ
động, tích cực, tự bồi dưỡng, rèn luyện của đội ngũ cấp uỷ viên cơ sở.
Thực hiện thường xuyên, nghiêm túc việc đánh giá chất lượng đào tạo,
bồi dưỡng theo Điều 16, Nghị định số 18/2010/NĐ-CP ngày 5-3-2010 của
Chính phủ về đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức. Việc đánh giá kết quả
đào tạo, bồi dưỡng, theo dõi chất lượng sau khoá học sẽ góp phần khắc
phục kịp thời những hạn chế, phát huy tính chủ động, tích cực, tự bồi
dưỡng, rèn luyện của cán bộ.
Rất hữu ích. Cảm ơn tác giả
Trả lờiXóa